Trường hợp vay tiền không trả sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự

Thế Hưng

(Dân trí) - Cuối năm, các vụ việc vay tiền, lừa đảo chiếm đoạt tài sản ngày càng gia tăng. Liệu người vay tiền không trả có bị truy cứu trách nhiệm hình sự?

Trao đổi với Dân trí về nội dung trên, TS LS Đặng Văn Cường, Trưởng văn phòng luật Chính Pháp cho hay, theo quy định của pháp luật, lừa đảo chiếm đoạt tài sản đến mức bị xử lý hình sự là hành vi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây:

Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật Hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.

Trường hợp vay tiền không trả sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự - 1

Vay tiền không trả có bị truy cứu trách nhiệm hình sự (Ảnh minh họa).

Pháp luật quy định vay tiền, vay tài sản là quan hệ dân sự. Trong Điều 463 Bộ luật Dân sự 2015 quy định, hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên. Theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay. Khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.

Đồng thời, Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 quy lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác.

Theo luật sư Cường, bản chất vay mượn tiền là quan hệ dân sự tự nguyện. Pháp luật không cấm người nợ tiền ngân hàng vay tài sản để trả nợ cho ngân hàng sau đó sẽ tiếp tục vay tiền của ngân hàng để trả nợ cho khoản vay nhằm kéo dài thời gian trả nợ, thường gọi là đảo nợ hay đáo hạn ngân hàng.

Nếu vay tiền rồi sử dụng sai mục đích nhưng không chứng minh được mục đích chiếm đoạt thì vẫn chỉ là quan hệ dân sự. Nếu người nào không còn khả năng trả nợ nhưng vẫn đưa ra thông tin gian dối để vay tiền và nhận thức được rằng không thể trả nợ và không có ý định trả nợ thì mới là hành vi lừa đảo, chứng minh ý chí của bên vay trong trường hợp này để buộc tội không đơn giản.

"Hành vi chỉ có thể cấu thành tội phạm nếu như người nợ tiền mất khả năng trả nợ, không có mục đích là sẽ trả nợ nhưng vẫn vay tiền, nhận tiền để sử dụng sai mục đích nhằm chiếm đoạt số tiền vay...", luật sư Cường khẳng định.

Cũng theo vị luật sư này, quan hệ dân sự vay tài sản chỉ chuyển thành quan hệ hình sự nếu cơ quan điều tra có căn cứ cho thấy việc nhận tiền thông qua thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt chính là số tiền đã vay. Thủ đoạn gian dối và mục đích chiếm đoạt tài sản phải có trước thời điểm nhận tiền thì người vay tiền mới phạm tội này.

Trường hợp bị kết tội về tội danh này thì các bị can phải đối mặt với khung hình phạt cao nhất của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo điều 174 Bộ luật hình sự là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.

Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

d) Tái phạm nguy hiểm;

đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

g) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;

c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;

c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản".