Đại học Tư thục: Tổ chức theo hình thức Hợp tác xã

(Dân trí) -Một trường đại học muốn trường tồn thì phải gồm nhiều thế hệ cổ đông, thế hệ này qua đi thì phải có thế hệ khác tiếp nối" - GS Trần Phương, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ, Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội cho biết.

Bộ GD-ĐT vừa công bố dự thảo Thông tư quy định nội dung, trình tự, thủ tục chuyển đổi loại hình trường ĐH dân lập sang loại hình trường ĐH tư thục. Tuy nhiên, mô hình này, nhiều trường đã làm từ lâu, Bộ đã ban hành quá muộn so với thực tế. Trường ĐH Kinh doanh và công nghệ là một mô hình điển hình của trường ĐH Tư thục.
 
GS Trần Phương, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ, Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội cho biết: Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội (trường được thành lập từ năm 1996), không phải là một công ty trách nhiệm hữu hạn, cũng không phải là một công ty cổ phần, mà là một tổ chức hợp tác (hay hợp tác xã) của những người lao động (nòng cốt là những người lao động trí óc), tự nguyện góp sức góp vốn để xây dựng và phát triển trường bền vững, vì sứ mệnh trồng người, không vì mục tiêu lợi nhuận. Nguyên tắc phi lợi nhuận bảo đảm được sự hài hoà của 4 lợi ích: Lợi ích của người góp vốn, lợi ích của sinh viên, lợi ích của cán bộ, nhân viên và giảng viên làm việc cho Trường, và lợi ích lâu dài của trường.

Với đặc trưng "hợp tác xã" và phi lợi nhuận, Trường ĐH Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội không thuộc phạm trù "kinh tế tư nhân", mà thuộc phạm trù "kinh tế tập thể xã hội chủ nghĩa". Tiền đồ phát triển của nó gắn liền với định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước”.

Những lựa chọn quan trọng nhất để làm nên Trường ĐH Kinh doanh và Công nghệ như sau:

Trường phải có chủ

Từ kinh nghiệm quản lý các cơ sở quốc doanh - về danh nghĩa thì có chủ mà trên thực tế thì dường như là vô chủ - những người sáng lập trường khẳng định một nguyên tắc: Trường phải có chủ.

Sau 5 năm hoạt động, nguồn thu học phí của trường đã đủ để trang trải các chi phí thường xuyên. Lúc này, nảy sinh ý kiến nên trả lại vốn góp cho các cổ đông. Ý kiến này không được chấp nhận, bởi 2 lẽ: nếu mọi cổ đông đều rút vốn thì còn ai là chủ của trường? Một trường vô chủ thì nguy cơ rối loạn là khó tránh khỏi. Mặt khác, nhu cầu về vốn đầu tư vẫn rất lớn, nếu trường muốn tạo dựng cơ nghiệp của riêng mình, đặc biệt là về trường sở.

Khi số lượng cổ đông của trường lên đến hàng trăm, lại nảy sinh ý kiến cần hạn chế bớt số lượng cổ đông làm cho việc điều hành gọn nhẹ hơn. Ý kiến này không nhận được sự đồng tình của một số cổ đông. Mặt khác, một trường đại học muốn trường tồn thì phải gồm nhiều thế hệ cổ đông, thế hệ này qua đi thì phải có thế hệ khác tiếp nối. Tính đến cuối năm 2010, số lượng cổ đông của Trường đã lên đến 774 người, số vốn góp đã lên đến 75 tỷ đồng.

Trường đại học tư thục không vì lợi nhuận

GS Trần Phương cho biết, nếu người góp vốn được chia lãi cuối năm thì việc góp vốn đương nhiên là có sức hấp dẫn cao. Tuy nhiên, điều bất lợi cũng rất lớn. Trong tình hình mặt bằng học phí của nước ta rất thấp, tỷ suất lợi nhuận rất thấp, nếu phải chia lợi nhuận cho người góp vốn thì chẳng còn lại bao nhiêu cho việc nâng cao chất lượng đào tạo!

Nếu là trường phi lợi nhuận thì những người góp vốn có được lợi ích gì? Họ nhận được một lãi suất cố định giống như lãi suất tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng thương mại, có phần nhỉnh hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm (lãi suất này được giữ ổn định từ ngày thành lập trường đến nay là 1,2%/tháng). Con số 75 tỷ đồng vốn góp đủ nói lên tính hấp dẫn của việc góp vốn theo điều kiện đó. Lãi suất trả cho người góp vốn không phải là phân phối lợi nhuận sau một năm kinh doanh. Nó được hạch toán vào chi phí, giống như lãi suất trả cho ngân hàng khi phải vay vốn của ngân hàng.

Đối với một trường phi lợi nhuận thì thực ra không có khái niệm lợi nhuận, chỉ có khái niệm "chênh lệch thu chi".

Như vậy, nguyên tắc phi lợi nhuận bảo đảm được sự hài hoà của 4 lợi ích: Lợi ích của người góp vốn; Lợi ích của sinh viên; Lợi ích của cán bộ nhân viên và giảng viên; Lợi ích lâu dài của trường. Nếu chỉ một chiều bảo đảm lợi ích của người góp vốn (chia lợi nhuận) thì khó lòng bảo đảm được một cách thoả đáng các lợi ích khác.

Dân chủ và Tập trung dân chủ

Dân chủ và Tập trung dân chủ

Khi số lượng người chủ của trường (tức cổ đông) lên tới hàng chục và hàng trăm người thì vấn đề tổ chức nổi lên hàng đầu. Tổ chức như thế nào để mọi người thấy được vị trí làm chủ của mình, tránh được tình trạng thâu tóm quyền lực vào tay một người hoặc một số người, hoặc ngược lại, tình trạng "nhiều sãi không ai đóng cửa chùa"? Để giải quyết vấn đề này, phải thực thi nguyên tắc dân chủ và tập trung dân chủ là 2 nguyên tắc đã trở thành thành quả chung của loài người.

Một tổ chức có nhiều người làm chủ, muốn tránh rối loạn, phải thực thi nguyên tắc tập trung dân chủ - tập trung trên cơ sở dân chủ của các cổ đông: Đại hội đồng cổ đông bầu ra Hội đồng quản trị, Hội đồng quản trị cử ra Ban Giám hiệu để điều hành các hoạt động hàng ngày của Trường. Ban Giám hiệu cũng là cơ quan chuẩn bị các đề án trình ra Hội đồng quản trị, và với chức năng đó, nó đóng vai trò như cơ quan thường trực của Hội đồng quản trị. Mọi quyết định quan trọng của trường, kể cả những quyết định về nhân sự chủ chốt, đều phải thông qua Hội đồng Quản trị.

Trong Quy chế trường đại học tư thục do Thủ tướng Chính phủ ban hành, không thấy quy định "Hội đồng trường" trong cơ cấu tổ chức của trường đại học tư thục, chỉ quy định Hội đồng quản trị gồm tối đa 7 người. Với số lượng 7 người thì không đủ đại diện cho các ngành học, các Khoa, các Phòng của Trường. Điều này không thuận lợi cho việc quyết định của Hội đồng quản trị khi đề cập đến những vấn đề chiến lược phát triển của Trường cũng như những vấn đề tài chính phân phối liên quan đến lợi ích của mọi người trong trường. Vì vậy, Trường ĐH Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội đã mở rộng thành phần của Hội đồng quản trị để Hội đồng này kiêm luôn cả chức năng "Hội đồng trường". Những thành viên vượt con số 7 người được gọi là ủy viên dự khuyết. Mở rộng thành phần của Hội đồng quản trị như vậy cũng có nghĩa là mở rộng dân chủ trong đội ngũ cán bộ chủ chốt của trường.

Tài chính và phân phối

Tài chính và phân phối là yếu tố dễ gây mất đoàn kết nhất trong một tổ chức. Trường đại học tư thục càng phải quan tâm xử lý đúng vấn đề này.

Trường đại học có nhiều ngành học, nhiều bậc học, nhiều hình thức đào tạo, mỗi thứ có nguồn thu khác nhau, nhu cầu chi khác nhau, do đó mà "tỷ suất doanh lợi" khác nhau. Những ngành học có tỷ suất doanh lợi tương đối cao thì thường có khuynh hướng "ăn chia" riêng. Điều này sẽ dẫn đến sự suy tỵ giữa các bộ phận, đó là mầm mống làm cho tổ chức tan rã. Cần nhận thức rằng sức mạnh của trường đại học, sự thành công của trường đại học nằm ở hệ thống phân công lao động hợp lý và sự phối hợp chặt chẽ giữa các Khoa, các Phòng. Tách rời giữa các Khoa, các Phòng thì không thành được trường đại học, không đào tạo nổi một sinh viên.

Để đảm bảo tính thống nhất của tổ chức, phải thực thi nguyên tắc thống nhất thu chi tài chính trong toàn trường, thống nhất tiêu chuẩn phân phối trong toàn trường, không chấp nhận hạch toán độc lập theo từng ngành học, từng hình thức đào tạo.

 Về tài chính, tuy là một trường phi lợi nhuận, vẫn phải quản lý như một doanh nghiệp. Phải cân nhắc từng khoản thu, từng khoản chi, bảo đảm ít nhất cân bằng thu chi trong từng thời kỳ, nếu chưa có tích luỹ thì cũng phải có dự phòng. Trường tư thục mà lỗ vốn thì chỉ có việc phá sản, chẳng ai cứu được mình.

Nguyên tắc phân phối phải là "phân phối theo lao động", tức là phân phối căn cứ vào chất lượng và số lượng lao động thực tế cống hiến của mỗi người, không máy móc căn cứ vào chức vụ hoặc học hàm học vị.

"Trong điều kiện mặt bằng học phí rất thấp của nước ta (học phí chỉ đủ trang trải chi phí đào tạo ở mức rất hạn hẹp) thì không thể coi giáo dục là một lĩnh vực kinh doanh. Nếu tìm kiếm lợi nhuận từ giáo dục thì không tránh khỏi phải hạ thấp chất lượng giáo dục xuống." - GS Trần Phương

 

Hồng Hạnh (ghi)