Hệ thống giáo dục đại học Việt Nam xếp vào nhóm 80/196 của thế giới

(Dân trí) - Hệ thống giáo dục đại học Việt Nam chưa lọt top 50 thế giới. Chúng ta vẫn chưa có trường đại học thuộc top 500. Tuy nhiên, với sự xuất hiện của hai đại học quốc gia vào top 1.000, có thể đánh giá hệ thống đại học của ta thuộc vào nhóm 80/196 của thế giới.

Đó là thông tin trong phát biểu tham luận của GS. TS Nguyễn Hữu Đức - Phó Giám đốc ĐH Quốc gia Hà Nội tại Hội thảo Giáo dục 2018 "Giáo dục đại học - Chuẩn hóa và Hội nhập quốc tế" do Ủy ban Văn hóa Giáo dục, Thanh thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội phố hợp với ĐH Quốc gia TP.HCM tổ chức ngày 17/8 tại Hà Nội.

Tiếp cận xếp hạng đại học của Việt Nam: Vẫn rất thấp!

Trong phiên thảo luận thứ nhất - Năng lực hệ thống giáo dục đại học, các chuyên gia nhấn mạnh đến nỗ lực và những kết quả đáng khích lệ mà giáo dục đại học Việt Nam đạt được trong thời gian qua. Một số trường đại học hàng đầu đã trở thành điểm sáng, tiên phong trong hệ thống giáo dục nước nhà, từng bước xác lập được vị thế trên trường quốc tế. Tuy vậy, nhìn vào bức tranh toàn cảnh, rõ ràng “một cánh én nhỏ không thể làm nên mùa xuân”.

GS.TS Nguyễn Hữu Đức - Phó Giám đốc ĐH Quốc gia Hà Nội trình bày tham luận chỉ rõ, tiếp cận xếp hạng hệ thống (bảng xếp hạng U21 của Hiệp hội các trường đại học Universitas và QS) của giáo dục Việt Nam chưa lọt top 50 thế giới. Còn theo bảng xếp hạng QS, năm 2018, Việt Nam lần đầu tiên đã có 2 trường đại học quốc gia lọt vào top 1000. Trong khu vực châu Á, Việt Nam có 5 cái tên: ĐH Quốc gia Hà Nội (139), ĐH Quốc gia TP.HCM (142), ĐH Bách khoa Hà Nội (291-300), ĐH Cần Thơ (301-350), ĐH Huế (351-400).

GS.TS Nguyễn Hữu Đức - Phó Giám đốc ĐH Quốc gia Hà Nội đánh giá tương quan xếp hạng đại học Việt Nam so với khu vực và thế giới.
GS.TS Nguyễn Hữu Đức - Phó Giám đốc ĐH Quốc gia Hà Nội đánh giá tương quan xếp hạng đại học Việt Nam so với khu vực và thế giới.

Theo ông Đức, so sánh ĐH Quốc gia Hà Nội với các trường top 400 châu Á, kết quả mới chỉ nhích qua mức trung bình một ít (khoảng 5%). Mặc dù có kết quả khiêm tốn như vậy, nhưng so với các trường top đầu trong cả nước, các chỉ số của ĐH Quốc gia Hà Nội vượt mức trung bình rất xa (trên 65%). Như vậy, nước ta không chỉ có ít các trường đại học nghiên cứu tốt mà mức độ nghiên cứu có sự khác biệt rất lớn.

Qua phân tích đối sánh kết quả xếp hạng cho thấy, chất lượng các công trình công bố (đánh giá qua số lượng trích dẫn) của ĐH Quốc gia Hà Nội và ĐH Quốc gia TP.HCM về cơ bản so sánh được với các trường top đầu của quốc gia trong khu vực nhưng năng suất nghiên cứu của các trường đại học top đầu Việt Nam vẫn thấp hơn so với các trường đại học top đầu trong khu vực ASEAN.

“Tựu trung, kết quả xếp hạng của các đại học Việt Nam rất thấp. Ngoài ra, các nguyên nhân về bẫy nghiên cứu và quốc tế hóa, tỷ lệ về mức độ uy tín học thuật và uy tín đối với các nhà tuyển dụng thấp còn phản ánh mối quan hệ giữa hệ thống giáo dục đại học và các bên liên quan, về mô hình và cơ chế vận hành của các trường đại học Việt Nam; trong đó cơ chế thị trường và mục tiêu đáp ứng yêu cầu của các bên liên quan chưa được quan tâm đúng mức”, GS.TS Nguyễn Hữu Đức nhấn mạnh.

Để đại học không chỉ là phổ thông kéo dài…

Ông Nguyễn Mạnh Hải - Trưởng ban nghiên cứu sản xuất Tập đoàn Viettel đại diện khối doanh nghiệp nhấn mạnh thực trạng, sinh viên ra trường thiếu kỹ năng làm việc. Hiện tại, các doanh nghiệp và nhà trường cũng đã bắt tay nhau hợp tác tuy vậy, đặc thù của doanh nghiệp là mong muốn có sản phẩm nhanh nhưng việc nghiên cứu để đưa ra sản phẩm thành công trong nhà trường mất nhiều thời gian.

“Doanh nghiệp và các trường đại học đều đang đối mặt với thách thức cạnh tranh toàn cầu. Hai bên cần gần nhau hơn, thấu hiểu hơn để hợp tác chặt chẽ, hiệu quả trong nâng cao chất lượng giáo dục đại học và nguồn lực chất lượng cao cho đất nước”, ông Hải nêu quan điểm.

Đai diện tập đoàn Viettel cho rằng, để đại học không chỉ là cấp phổ thông kéo dài, trường đại học và doanh nghiệp cần tập trung đẩy mạnh mô hình đào tạo ứng dụng thực hành. Chẳng hạn 5 tiết thì 3 tiết dạy kiến thức, 2 tiết mời chuyên gia từ các tập đoàn doanh nghiệp để sinh viên hình dung rõ nhất về thực tế nghề nghiệp cũng như các kỹ năng cần trau dồi, đồng thời hợp tác nghiên cứu khoa học, sản xuất sản phẩm theo đặt hàng của doanh nghiệp.

Các đại biểu tham dự chương trình.
Các đại biểu tham dự chương trình.

Đại diện đến từ trường ĐH Thăng Long cũng nêu ý kiến cho rằng: “Hợp tác giữa đại học và doanh nghiệp và doanh nghiệp đang có trở ngại nếu không có luật pháp tham gia. Nhiều việc trường đại học chưa dám làm khi chưa có luật pháp vì dễ gặp rắc rối”.

Theo TS. Nguyễn Quốc Chính - ĐH Quốc gia TP.HCM, hiện nay việc hợp tác giữa các trường đại học và doanh nghiệp nhìn chung vẫn tự phát. Theo ông Chính, cần có định hướng để hợp tác hai bên mang tính hệ thống thay vì chỉ tự phát như hiện nay. Đồng thời, có cơ chế để doanh nghiệp đến tham gia giảng dạy tại các trường và xây dựng chiến lược hợp tác dài hạn.


Ông Nguyễn Quốc Chính - đại diện ĐH Quốc gia thành phố HCM phát biểu ý kiến.

Ông Nguyễn Quốc Chính - đại diện ĐH Quốc gia thành phố HCM phát biểu ý kiến.

GS.TS Nguyễn Hữu Đức - Phó Giám đốc ĐH Quốc gia Hà Nội nhấn mạnh, để sự phát triển giáo dục đại học có tính bền vững, cần xây dựng theo hướng chuẩn hóa, xác định chỉ tiêu phát triển theo hướng hội nhập và được đánh giá, đối sánh với các quốc gia trên thế giới.

Trong bối cảnh thích ứng với cuộc cách mạng 4.0, đồng thời với việc nâng năng lực tài chính và năng lực tự chủ, hệ thống giáo dục đại học nước ta cần quan tâm đến năng lực chuyển đổi, năng lực đào tạo định hướng khởi nghiệp, năng lực nghiên cứu hàng lâm định hướng đổi mới sáng tạo, năng lực số hóa và đặc biệt là năng lực phục vụ cộng đồng.

Lệ Thu