7 bí quyết dạy, ôn tập tốt để thi trắc nghiệm môn Toán THPT quốc gia

(Dân trí) - Nhận định về đề thi minh họa Toán THPT quốc gia, Tiến sĩ phương pháp giảng dạy toán Lê Thống Nhất cho biết, tỷ lệ các câu kiểm tra kiến thức cơ bản ở mức độ cho mục tiêu tốt nghiệp THPT nhiều hơn những câu đòi hỏi vận dụng kiến thức nhằm tới việc dùng kết quả để tuyển sinh đại học.


Đề thi minh họa môn Toán THPT quốc gia dành nhiều kiến thức cho tốt nghiệp nhiều hơn xét tuyển ĐH

Đề thi minh họa môn Toán THPT quốc gia dành nhiều kiến thức cho tốt nghiệp nhiều hơn xét tuyển ĐH

Thời gian 1,8 phút/câu

Theo Tiến sĩ Phương pháp giảng dạy toán Lê Thống Nhất chia sẻ tại BigSchool.vn, với ưu thế về số câu ở hình thức trắc nghiệm nên các kiến thức toán lớp 12 có trong đề được phủ rộng hơn so với đề tự luận. Mặt khác, với 50 câu nên các dạng bài có tính “đánh đố” đã không xuất hiện mà tất cả đều là các câu liên quan tới các kiến thức toán cơ bản trong chương trình từ mức độ kiểm tra kiến thức tới mức độ vận dụng sự hiểu biết.

Tỷ lệ các câu kiểm tra kiến thức cơ bản ở mức độ cho mục tiêu tốt nghiệp THPT nhiều hơn những câu đòi hỏi vận dụng kiến thức nhằm tới việc dùng kết quả để tuyển sinh đại học (đối với những trường không đòi hỏi cao về năng lực toán học).

Cấu trúc đề thi có thể thấy gồm 7 nội dung đúng theo 7 chương trong chương trình toán lớp 12, với mỗi nội dung được sắp thứ tự theo mức độ cao dần để học sinh có thể dễ lựa chọn nhanh về thứ tự làm các câu dễ ở từng nội dung.

Ở đây cũng cần nhắc lại thời gian trung bình dành cho mỗi câu, kể cả đọc câu hỏi, nhớ lại kiến thức cơ bản và thực hiện việc lựa chọn đáp án dù là bằng cách sử dụng máy tính cầm tay hay kiểm thử các đáp án sẽ chỉ là 1,8 phút đều đòi hỏi tốc độ cao của học sinh khi tái hiện kiến thức hay quyết định hướng làm bài.

Tiến sĩ Nhất đã đưa ra 7 lưu ý khi ôn tập môn Toán trắc nghiệm như sau:

1. Các câu trực tiếp sử dụng máy tính cầm tay để đi đến kết quả chiếm khoảng 1/3 số câu trong đề này. Các câu này tuy không cần quan tâm tới các bước giải nhưng học sinh vẫn cần biết khái niệm để nhận dạng và thực hiện việc sử dụng máy tính cầm tay thành thạo. Như vậy, việc ôn tập thi trắc nghiệm môn toán không chỉ dừng lại ở việc luyện tập kĩ năng sử dụng máy tính cầm tay.

2. Khi dạy cho học sinh, các thầy cô cần phân tích những sai lầm hay gặp phải để học sinh tránh được những đáp án có tính chất “bẫy” học sinh vào lựa chọn đáp án sai. Việc đọc hiểu các đáp án là việc cũng cần rèn luyện cho học sinh. Thầy cô cần có những diễn đạt khác nhau về các mệnh đề, các kết luận của bài toán để chỉ ra những cách hiểu sai về các khái niệm toán.

3. Không những dạy kĩ từng khái niệm cơ bản, thầy cô cần dạy cho học sinh những điều khái quát khi học xong các vấn đề. Ngoài việc dạy từng loại hàm số với các dạng đồ thị của mỗi loại hàm số này, cần tổng kết để so sánh đối chiếu. Chẳng hạn với câu 1 thì khi học sinh nắm được sự khái quát này có thể loại bỏ ngay các đáp án A, B, C vì các hàm số này không thể có dạng đồ thị như đã cho nên chọn ngay đáp án D mà không cần tính đạo hàm hàm số này, tốc độ làm bài chắc chắn sẽ nhanh hơn.

4. Về mức độ các dạng toán liên quan tới một khái niệm, thầy cô cần xuất phát từ thí dụ đơn giản, đơn thuần là áp dụng định nghĩa, nhưng cũng tiến tới các thí dụ đòi hỏi hiểu khái niệm hơn, đưa ra bài toán để học sinh tránh hiểu sai về khái niệm. Chẳng hạn với câu 2 chỉ cần học sinh áp dụng định nghĩa về đường tiệm ngang nhưng tới câu 9 thì đòi hỏi phải hiểu hơn và vận dụng tốt hơn về khái niệm.

5. Khi dạy một loại toán, thầy cô cần dạy những cách giải khác nhau để khi gặp các tình huống trong đề thi học sinh có thể lựa chọn cách làm nào nhanh nhất tuỳ theo các phương án mà đề thi đưa ra .

6. Ngoài việc dạy học sinh làm các bài toán với những con số cụ thể, các thầy cô cần dạy cả những bài toán có tính tổng quát và ghi nhớ kết quả tổng quát. Chẳng hạn bài toán tổng quát dễ nhất của câu 10 là cho tấm kim loại hình vuông có cạnh là a (đ.v.đ.d) và người ta cắt đi ở 4 góc các hình vuông cạnh x (đ.v.đ.d) để gấp thành cái hộp không nắp (a > 2x). Xác định x để thể tích hình hộp lớn nhất. Thể tích V = x(a – 2x)(a- 2x) (đ.v.d.t). Bài toán này có thể áp dụng bất đẳng thức Cô – si hoặc xét hàm số sẽ có ngay kết quả V lớn nhất khi x = a/6 . Vậy khi gặp bài cụ thể như câu 10 học sinh thấy ngay x = 2 nên chọn đáp án C. Có thể tổng quát khó hơn là tấm kim loại ban đầu là hình chữ nhật.

7. Khi dạy các khái niệm toán học thầy cô cần phân tích ý nghĩa hình học hoặc ý nghĩ vật lý nếu có của khái niệm và quay lại các ý nghĩa này khi học thêm các khái niệm khác. Chẳng hạn khi học khái niệm đạo hàm tại một điểm, thầy cô nhấn mạnh ý nghĩa vật lý và ý nghĩa hình học nhưng khi học xong khái niệm nguyên hàm cần quay trở lại vấn đề này. Nếu trước đây cho hàm S = f(t) với S (đ.v.đ.d) là quãng đường đi được tại thời điểm t (đ.v.t.g) thì S’ = f’(t) (đ.v.v.t) chính là vận tốc của chuyển động tại thời điểm t (đ.v.t.g).


Tiến sĩ Phương pháp giảng dạy Toán Lê Thống Nhất chia sẻ tại BigSchool.vn

Tiến sĩ Phương pháp giảng dạy Toán Lê Thống Nhất chia sẻ tại BigSchool.vn

“Tôi hy vọng các thầy cô hiểu đúng về dạy thi trắc nghiệm môn toán. Không phải chúng ta bỏ qua được những gì mà khi dạy thi tự luận chúng ta đã thực hiện mà chúng ta vẫn phải dạy thật kỹ các kiến thức cơ bản. Qua đó, các bạn học sinh lớp 12 có đọc bài viết này cũng cảm nhận được về cách học của mình để không hoang mang với hình thức thi mới” - TS Lê Thống Nhất nhấn mạnh.

Thạc Sĩ Ngô Thanh Sơn ( Tổ Trưởng Tổ Toán THPT Vĩnh Viễn, TPHCM ): Đề minh họa ra giàn trải khắp cả chương trình 12, ra cả vào các phần mà trước đây các giáo viên dạy qua loa, thậm chí lờ đi không dạy

Nhìn chung, đề thi nằm trong chương trình lớp 12. Đề thi ra bao quát cả chương trình 12, các câu hỏi đa phần là các vấn đề nhỏ, phủ kín khắp các chủ đề trong chương trình. Từ đó kiểm tra được những phần kiến thức mà trong đề thi tự luận trước đây chưa từng ra thi.

Đề thi có 5 câu có những đồ thị, bảng biến thiên, hình vẽ (câu 1, câu 4, câu 10, câu 31, câu 40) mà học sinh phải dựa vào đó để lấy thông tin từ đó mới trả lời được câu hỏi. Đề thi có những câu hỏi ứng dụng toán để giải quyết vấn đề: bài toán giá trị lớn nhất có dùng đến hình vẽ minh họa (câu 10), bài toán lãi suất (câu 21), bài toán ứng dụng của môn vật lý (câu 24).

Có câu hỏi thuần túy là lý thuyết trong sách giáo khoa (câu 22). Có những câu tích phân, học sinh chỉ cần nhập vào máy tính là sẽ ra kết quả (câu 25, câu 26). Phần hình học có 15 câu, chiếm khoảng 3 điểm giống như trong đề thi tự luận. Phần hình học không gian, vẫn có các chủ đề quen thuộc như tính thể tích khối chóp, khoảng cách trong không gian, bán kính mặt cầu ngoại tiếp. Ngoài ra, một số phần mới xuất hiện như: hình nón (câu 39), hình trụ (câu 40, câu 41).

Các câu hỏi tính toán trong đề thi, đa phần ở mức độ cơ bản. Các bước tính toán là tường minh, học sinh chỉ cần vận dụng lý thuyết, thuộc công thức là làm được. Điều này giúp tránh cho các em phải luyện các bài toán phức tạp, mẹo mực.

Đề minh họa ra giàn trải khắp cả chương trình 12, ra cả vào các phần mà trước đây các giáo viên dạy qua loa, thậm chí lờ đi không dạy: ứng dụng của đạo hàm, các khối tròn xoay. Điều này làm cho các giáo viên phải điều chỉnh nội dung giảng dạy của mình trong thời gian sắp tới, không còn dạy xoáy vào một số nội dung trọng tâm như trước nữa.

Với điều kiện thời gian trong 90 phút cùng áp lực của phòng thi, học sinh trung bình có thể làm được từ 20 – 25 câu. Học sinh khá – giỏi làm được từ 40 – 45 câu. Mặc dù không có các câu phân loại quá khó như trong đề tự luận, chỉ có các học sinh xuất sắc mới có thể làm trọn vẹn bài thi này.

Thành Công (ghi)