Chính phủ cần nới lỏng các quy định về tài chính cho trường đại học

(Dân trí) - Phân tích về tự chủ tài chính trong đại học, GS.TS Nguyễn Trọng Hoài, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế TPHCM kiến nghị: “Chính phủ cần nới lỏng các quy định về tài chính cho trường đại học, cho phép hoạt động theo cơ chế như doanh nghiệp”.

Tự chủ tài chính trong đại học ở Việt Nam vẫn còn trong giai đoạn thí điểm và việc triển khai nó còn khá nhiều hạn chế, thậm chí là còn nhiều tranh luận trái chiều.

GS.TS Nguyễn Trọng Hoài, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế TPHCM đã có đúc kết từ các chính sách tự chủ tài chính các đại học từ các quốc gia trên thế giới bao gồm các quốc gia phát triển ở châu Âu, châu Úc và châu Á, để tìm ra thông lệ tốt phù hợp với bối cảnh Việt Nam.


GS.TS Nguyễn Trọng Hoài, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế TPHCM.

GS.TS Nguyễn Trọng Hoài, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế TPHCM.

70% nguồn thu từ học phí là rất rủi ro

Về bối cảnh tự chủ tài chính đại học ở Việt Nam, theo GS.TS Nguyễn Trọng Hoài, Nghị quyết 77/NQ-CP của Chính phủ ngày 24/10/2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập, đến năm 2018 đã có 23 trường đại học tự chủ. Các trường đảm bảo được toàn bộ chi thường xuyên và trích lập được các quỹ nhờ việc được tự chủ học phí và tăng quy mô đào tạo các chương trình chất lượng cao.

Việc tăng nguồn thu từ học phí đã tạo áp lực các trường đầu tư nhiều hơn vào trang bị cơ sở vật chất cho giảng dạy và học tập, tài trợ học bổng cho sinh viên, tài trợ, viện trợ, và hoạt động tư vấn và nghiên cứu khoa học.

Tuy nhiên, theo GS Hoài, việc thực hiện chính sách tự chủ tài chính đại học tại Việt Nam vẫn gặp phải những hạn chế là: Chính phủ chưa có định hướng cụ thể cho việc chuyển tiếp từ giai đoạn thí điểm của Nghị quyết 77 sang giai đoạn chính thức thực hiện. Điều này gây khó khăn cho các trường đại học trong việc lập kế hoạch phát triển dài hạn, đầu tư vào cơ sở vật chất và nhân sự;

Về tự chủ tài chính, chính phủ chưa có hướng dẫn cụ thể về quyền tự chủ của trường đại học trong các mức chi tiêu, chẳng hạn như chi cho nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, chi xây dựng chương trình giáo dục, chi xây dựng giáo trình đại học và chi công tác phí. Bên cạnh đó, nhà nước vẫn chưa tính đúng, tính đủ mức chi phí thực tiễn cần thiết để bảo đảm chất lượng đào tạo cũng như căn cứ để xây dựng khung học phí, bao gồm định mức kinh tế - kỹ thuật phù hợp với từng nhóm ngành, chuyên ngành đào tạo còn chưa được tính toán một cách đầy đủ, khoa học, phù hợp với thực tiễn;

Thu từ học phí và lệ phí vẫn là nguồn thu chính của trường đại học tự chủ khi chiếm trên 70% tổng thu là rất rủi ro, nguồn thu phụ thuộc nhiều vào tình hình tuyển sinh. Đây là rủi ro cao đối với chất lượng đào tạo của trường đại học do tuyển sinh phụ thuộc vào nhu cầu xã hội và quy định của nhà nước.

Tự chủ tài chính đại học không đồng nghĩa với việc chính phủ cắt giảm hoàn toàn nguồn ngân sách tài trợ

Từ kinh nghiệm thực tiễn của một số quốc gia trên thế giới và bối cảnh tự chủ tài chính giáo dục đại học Việt Nam, GS.TS Hoài cho rằng, tự chủ tài chính đại học không đồng nghĩa với việc chính phủ cắt giảm hoàn toàn nguồn ngân sách tài trợ. Nguồn ngân sách tài trợ của chính phủ vẫn đóng vai trò quan trọng đối với các trường đại học, bởi lẽ nguồn ngân sách tài trợ này tạo nền tảng vững chắc để trường đại học chuyển dần sang mô hình tự chủ tài chính.

Hiện nay, hệ thống trường đại học tại Việt Nam còn nhiều hạn chế về cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực, nên gặp nhiều khó khăn trong việc đa dạng hóa nguồn thu, nguồn thu chủ yếu vẫn chỉ tập trung vào học phí và lệ phí.

Do đó, việc nhà nước cắt giảm hoàn toàn nguồn ngân sách tài trợ sẽ tạo ra những khó khăn rất lớn cho trường đại học trong việc duy trì quá trình hoạt động ổn định.

Vì vậy, gói tài trợ từ chính phủ cần hướng đến các trường đại học được cho phép tự chủ hoàn toàn, cụ thể là phải tập trung vào các lĩnh vực như: hình thành campus đại học đúng nghĩa; các phòng thí nghiệm có khả năng tiếp cận nghiên cứu đẳng cấp quốc tế; thu hút sinh viên quốc tế và thu hút học giả quốc tế phát triển nghiên cứu; cơ chế học bổng đào tạo nghiên cứu sinh trong nước có khả năng công bố quốc tế; nguồn tài trợ cho các tạp chí học thuật phát triển hệ thống xếp hạng quốc tế; nguồn tài trợ nghiên cứu công bố quốc tế và nghiên cứu chuyển giao gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội.

Bên cạnh đó, Chính phủ cần có thiết kế cơ chế chính sách cụ thể để phân bổ nguồn ngân sách công cho trường đại học một cách hợp lý. Hiện nay, hình thức gói tài trợ (block grant) được nhiều quốc gia phát triển ở châu Âu, châu Úc và châu Á áp dụng.

Việc triển khai hình thức này mang lại ba tác động tích cực. Thứ nhất, nhà nước giảm thiểu được một phần gánh nặng về ngân sách tài trợ cho giáo dục đại học. Thứ hai, chính sách này khuyến khích các trường đại học sử dụng nguồn ngân sách nhà nước một cách hiệu quả và tránh lãng phí.

Thứ ba, cơ chế phân bổ nguồn ngân sách theo hình thức gói tài trợ dựa trên nền tảng đánh giá kết quả hoạt động đào tạo và nghiên cứu cụ thể hàng năm của trường đại học, chẳng hạn như căn cứ vào tỷ lệ tiến sĩ trên tổng số giảng viên cơ hữu, số bài báo công bố quốc tế và trích dẫn từ giảng viên và nghiên cứu sinh, số nghiên cứu được chuyển giao cho các ngành kinh tế và địa phương, số chuyên ngành đào tạo được kiểm định, tài trợ khuyến khích bổ sung cho các quỹ nghiên cứu huy động từ các khu vực tư nhân và các tổ chức quốc tế.

Theo GS Hoài, điều này không chỉ tạo động lực để các trường phấn đấu nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu, mà còn tạo ra cơ chế cạnh tranh giữa các trường đại học trong việc dành được các gói tài trợ từ chính phủ, và từ cơ chế này hệ thống đại học sẽ phát triển bền vững gắn với các kết quả theo hướng quốc tế hóa.

Cho phép các trường đại học hoạt động theo cơ chế như một doanh nghiệp

Đặc biệt, GS.TS Hoài kiến nghị, Chính phủ cần nới lỏng các quy định về tài chính cho trường đại học, cho phép hoạt động theo một cơ chế như một doanh nghiệp.

GS Hoài cho rằng, đây là tiền đề để trường đại học có thể vay mượn nguồn tài chính từ thị trường tài chính, hoặc mua bán bất động sản, hoặc sử dụng các bất động sản để thực hiện các kinh doanh dịch vụ gắn với năng lực đào tạo và nghiên cứu nhằm gia tăng nguồn thu phục vụ cho hoạt động.

Thông lệ của một số quốc gia phát triển cho thấy rằng nhà nước cho phép trường đại học sở hữu các hình thức bất động sản như đất và các tòa nhà, và được toàn quyền quyết định việc mua bán và sử dụng các bất động sản trên theo chiến lược tổng thể của trường gắn với lợi ích chung của quá trình đào tạo và nghiên cứu và phát triển cơ sở vật chất. Hoặc ở một số quốc gia khác, trường đại học có tư cách pháp nhân để thực hiện các giao dịch vay mượn từ thị trường tài chính đáp ứng cho nhu cầu phát triển chiến lược của trường đại học.

Chính các chính sách trên góp phần nâng cao tính tự chủ của trường đại học, tạo động lực để trường đại học sử dụng nguồn vốn một cách hiệu quả và tối ưu hơn.

Ngoài ra, sự kết hợp giữa hành lang chính sách của nhà nước và nỗ lực của tự thân trường đại học về đa dạng hóa nguồn thu. Chính phủ cần khuyến khích các trường đại học hoạt động trên tinh thần kinh doanh, đồng thời tạo hành lang chính sách thuận lợi để trường đại học tiến tới tự chủ tài chính thông qua hai hoạt động:

Cải thiện các nguồn thu hiện có (như học phí, các dịch vụ liên quan đến nghiên cứu khoa học, tài trợ tư nhân và các giải thưởng), và quản lý tài chính hiệu quả hơn thể hiện qua việc tối ưu hóa hoạt động thu và chi.

Chủ động tìm kiếm các nguồn thu mới như sự hiến tặng và tài trợ của cựu sinh viên, mua bán bất động sản, vay mượn từ thị trường tài chính và các hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục và nghiên cứu khoa học. Điều này tạo cơ sở để các trường đại học dần nâng cao năng lực tự chủ và hướng đến mô hình trường đại học tự chủ.

Song song đó, trường đại học cũng cần phát huy tối đa tính chủ động và năng lực đổi mới sáng tạo trong việc tìm kiếm các nguồn thu mới; mạnh dạn triển khai các hoạt động giáo dục và nghiên cứu khoa học theo định hướng thị trường, đáp ứng nhu cầu của các ngành kinh tế nhằm gia tăng tính đa dạng của nguồn thu.

"Thực hiện những chính sách trên là bước đầu trong quá trình chuyển dần quyền điều hành từ nhà nước sang trường đại học trên tất cả các khía cạnh gồm tài chính, học thuật, nhân sự và quản trị tổ chức. Hay nói cách khác, đây là tiến trình chuyển đổi cơ chế quản lý hệ thống giáo dục đại học từ mô hình nhà nước điều hành thành mô hình nhà nước giám sát theo thông lệ quốc tế" - GS Hoài nhấn mạnh.

Hồng Hạnh (ghi)